Thursday 24 February 2011

Mất ngủ dễ gây béo phì



Trong giấc ngủ, một hóa chất gọi là leptin sẽ được giải phóng, với nhiệm vụ thông báo khi nào cơ thể tích đủ mỡ. Thiếu ngủ sẽ làm lượng chất này suy giảm, gây kích thích cảm giác thèm ăn vô kiểm soát.

Theo tiến sĩ Gregor Hasler, Viện Sức khỏe thần kinh quốc gia Mỹ, tình trạng mất ngủ còn ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các hoóc môn đốt cháy calo thừa trong một ngày.

Khi theo dõi gần 500 người tuổi từ 27 đến 40 trong vòng 13 năm, Hasler và cộng sự nhận thấy những người tăng cân nhiều nhất thường ngủ ít hơn 6 tiếng mỗi đêm. Thời gian ngủ trung bình của phụ nữ tham gia nghiên cứu giảm từ 7,7 giờ xuống 7,3 giờ, còn nam giới là từ 7,1 giờ xuống 6,9 giờ. Trong suốt 13 năm, mức tăng cân trung bình của họ là 2,17 kg.

Có một vài giả định về nguyên nhân của hiện tượng trên, Hasler cho biết. Đó có thể là khi thời gian thức giấc càng dài thì xu hướng ăn thêm càng tăng. Hoặc tình trạng thiếu ngủ có thể đã tàn phá hệ sinh hóa tự nhiên của cơ thể liên quan đến hoạt động và thời lượng ngủ đêm. Giả thuyết thứ hai đã nhận được sự ủng hộ của chuyên gia về giấc ngủ Sanjay Patel đến từ Đại học Harvard. Theo ông, có rất nhiều hóa chất và hoóc môn kiểm soát cảm giác thèm ăn và tăng cân. "Chúng rất dễ bị thay đổi khi thời gian ngủ giảm đi chỉ 1 hoặc 2 tiếng". Mỗi người có nhu cầu riêng về giấc ngủ, có người chỉ cần 3 tiếng, có người lại cần tới 11 tiếng một đêm. Song dù ít hay nhiều thì nó vẫn đảm bảo cho cơ thể tỉnh táo suốt cả ngày. Do đó, Hasler cảnh báo nếu bạn ngủ ít hơn nhu cầu tự nhiên, ẩn họa đối với sức khỏe là điều khó tránh khỏi.

Sunday 20 February 2011

Vitamin C và sự lão hóa



Đúng là trái cây rất tốt cho sức khỏe. Trong trái cây, ngoài vitamin C ra còn có rất nhiều vitamin khác và chất đạm thực vật dễ tiêu hóa, ít gây hại cho sức khỏe hơn thịt lợn, thịt bò.

Người thiếu vitamin C có thể bị bệnh Scorbut (một bệnh gây sốt nhẹ, thiếu máu, chảy máu ở lợi, rối loạn tiêu hóa, suy kiệt, có thể dẫn đến tử vong). Ngày xưa, bệnh này thường xảy ra ở các thủy thủ sống một thời gian dài trên biển, không ăn rau quả.

Năm 1928, Szent Goryi đã tìm ra vitamin C từ rau cải. Phát hiện của ông đã được giải Nobel năm 1937. Cơ thể con người không thể tổng hợp được vitamin C cũng như một số vitamin cần thiết khác. Do đó, con người cần dùng thức ăn có nhiều vitamin C. Nhu cầu về vitamin C hằng ngày của người khỏe mạnh hoàn toàn là 60-100 mg. Nhu cầu này gia tăng ở phụ nữ mang thai, người cho con bú, sau phẫu thuật, đang dưỡng bệnh hay vận động cơ thể nhiều.

Ngày nay, tình trạng thiếu vitamin C vẫn còn xảy ra do cách ăn uống chưa hợp lý. Việc nấu nướng thức ăn quá lâu, dùng nhiều các thực phẩm đóng hộp... có thể gây thiếu hụt vitamin C. Bên cạnh đó, việc hút thuốc lá và uống rượu làm gia tăng nhu cầu về vitamin C mỗi ngày. Ở một số người, dinh dưỡng kém, rối loạn về hấp thụ ở ruột cũng gây ra thiếu vitamin C mạn tính. Việc bổ sung vitamin C thường xuyên bằng cách ăn trái cây hoặc uống thuốc sẽ khiến tình trạng sức khỏe được cải thiện rõ rệt (về thể chất cũng như về tâm lý).

Vitamin cũng có tác dụng chống ôxy hóa. Nó tham dự vào rất nhiều phản ứng biến dưỡng của tế bào cơ thể. Lượng vitamin C dự trữ ở máu và ở các tế bào giảm dần khi già. Nhiều người băn khoăn về việc có thể làm chậm sự lão hóa bằng cách bắt đầu dùng nhiều vitamin C từ một lứa tuổi nào đó không? Câu hỏi này đến nay chưa có giải đáp.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, vitamin C có khả năng:

- Kích thích chức năng miễn dịch của cơ thể, làm mạnh thêm các thuốc tiêm phòng, nhất là thuốc phòng cảm cúm. Được chỉ định trong trường hợp nhiễm trùng kéo dài như herpes, zona, viêm nhiễm đường hô hấp ở người có cơ địa dị ứng.

- Làm lành sẹo nhanh, có hiệu quả tốt trong sự biến dưỡng sụn ở các người có bệnh về sụn khớp.

- Phòng ngừa bệnh xơ mỡ động mạch bằng cách làm giảm chất mỡ, triglycerid và cholesterol trong máu.

- Bảo vệ cơ thể, làm giảm độc ở người uống rượu hay hút thuốc.

- Tăng cường sức mạnh cơ bắp và làm chậm cảm giác mệt mỏi khi vận động, chơi thể thao.

Một số nhà khoa học còn cho rằng vitamin C có tác dụng bảo vệ cơ thể chống lại bệnh ung thư, nhất là ung thư dạ dày.

Vitamin C được thải ra nhanh theo đường tiểu, do đó nếu dùng nhiều cũng không sợ bị quá liều.

Ảnh hưởng của ánh nắng mặt trời đối với da



Những người thiếu vitamin D (không nhiều) cần phơi nắng. Nhưng với đa số, ánh nắng mặt trời rất có hại vì làm da nhanh bị lão hóa, có thể đưa đến bệnh ung thư da về sau. Cần thận trọng khi nghỉ ngơi hay làm việc ngoài nắng để tránh các tác dụng có hại.

Ánh nắng trực tiếp chiếu vào da sẽ gây tác hại tối đa vào mùa hè, vào giữa trưa. Ở vùng càng cao (so với mực nước biển), ảnh hưởng này càng lớn. Ánh sáng mặt trời có thể làm da sậm màu ngay cả khi trời có nhiều mây. Không chỉ ánh nắng chiếu trực tiếp mà ngay cả ánh phản chiếu của tia tử ngoại ở mặt đất, trên cát, trên nước, trên cỏ hay ngay cả trên tuyết cũng gây hại cho da.

Tác dụng của các tia tử ngoại (UV) lên da là không giống nhau:

- UVA làm cho da sạm lại. Nó xuyên qua biểu bì và 20% đến được vùng bì.

- UVB gây ra bệnh cảm do nắng. Nó bị chặn lại ở tầng sừng, 20% đến niêm mạc và 10% đến các gai bì. Chính 10% này tham dự vào việc tạo các nếp nhăn.

* Các tác hại của tia tử ngoại với cấu trúc da:

- Ở vị trí phân tử: Do tác dụng quang hóa, một số phân tử các chất bị phân hủy, phóng thích gốc tự do.

- Ở vị trí tế bào: Cấu trúc xoắn của ADN bị thay đổi, ảnh hưởng đến sự tổng hợp của tế bào.

- Ở bề mặt da và các nếp nhăn: Sau khi bị nắng làm đỏ lên, các nếp nhăn trở nên nhiều hơn, rộng hơn và sâu hơn.

Tóm lại, đối với người Việt Nam, ánh nắng mặt trời có hại cho da, cho sức khỏe nhiều hơn có lợi. Do đó, nên hạn chế việc phơi mình dưới nắng và cần có biện pháp bảo vệ khi làm việc liên tục ngoài nắng.

Friday 18 February 2011

Vitamin E và sự lão hóa



Vitamin E nằm trong nhóm thuốc điều trị để nhằm ngăn chặn sự ôxy hóa các gốc tự do trong cơ thể (bên cạnh vitamin C, selen...). Hiện tượng ôxy hóa các gốc tự do trong cơ thể có thể đưa đến nhiều bệnh về tim, tiêu hóa, não... và làm cho người già đi nhanh, nhất là ở da.

Các gốc tự do tấn công vào những yếu tố cấu thành màng tế bào, đặc biệt là các chất mỡ tạo thành màng tế bào, các axit nhân tế bào. Hệ thống bảo vệ cơ thể sẽ chống lại hiện tượng này. Tuy nhiên, sự chống lại của cơ thể ngày càng yếu đi. Việc uống rượu, hút thuốc và tia tử ngoại làm cơ thể phóng thích nhiều gốc tự do hơn. Vì vậy, cần dùng thêm các chất chống ôxy hóa từ bên ngoài.

Vitamin E được chiết xuất từ dầu của lúa mì lần đầu tiên năm 1936. Nó cũng có trong một số chất như gan bê, chuối, táo, đào, lúa mì, hạt ngô, tiêu, trứng.... Tuy nhiên, các thức ăn nhiều vitamin E nhất là hạt lúa mì và dầu thực vật. Liều dùng mỗi ngày là 5-12 mg cho người lớn (nam nữ bằng nhau).

Ngoài việc ngăn chặn tác dụng có hại của các gốc tự do, vitamin E còn có tác dụng giống như aspirine, ngăn chặn sự kết dính tiểu cầu, giúp giảm nguy cơ tắc mạch ở người bị bệnh tim mạch. Nhiều người nghĩ vitamin E có thể thúc đẩy sự phát triển tinh trùng ở nam giới, nhất là ở người lớn tuổi. Nhưng cho đến nay chưa có nghiên cứu nào xác nhận điều này.

Tóm lại, cơ chế ngăn ngừa sự lão hóa của vitamin E là làm chậm sự ôxy hóa các chất quan trọng của cơ thể và giảm bớt sự kết dính của các tiểu cầu trong mạch máu. Trường hợp cụ thể của bạn có thể dùng sinh tố E. Nếu ngại uống thuốc, bạn có thể dùng các thực phẩm kể trên.